Như chúng ta đã biết, nghệ thuật đương đại với những dạng thức mới chủ yếu (intasllation; performance art; video art;…) đã hoà nhập vào Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá. Quá trình bình thường hoá thẩm mỹ này, hay cũng có thể nói là sự thêm ra cho nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại đã vấp phải không ít trở ngại bởi một sức đề kháng được tự động hoá từ chính người trong giới trước tiên chứ không phải từ đại chúng. Quá trình đó kéo dài mười mấy năm để rồi Festival mỹ thuật trẻ toàn quốc 2007 diễn ra và được đón nhận, hưởng ứng bởi hầu hết những người tham gia vào mọi hoạt động nghệ thuật.
Có thể nói ngay rằng, tên gọi của sự kiện trên không bộc lộ hết ý nghĩa đối với tính chất của nó. Vì ban tổ chức phải bảo đảm dễ chấp nhận về mặt sự kiện và hợp lý về mặt truyền thông. Tầm cỡ của nó không chỉ thuần tuý là sự kiện mỹ thuật mà còn là sự kiện văn hoá nếu chúng ta ý thức được rõ tầm ảnh hưởng. Bởi, ở đây, chúng ta đang chính thức hoá một mô hình thẩm mỹ mới chứ không đơn thuần là chấp nhận một thể loại; trường phái hay một xu hướng mỹ thuật. Do đó, nó còn một cái tên ngoài lề được người ta dùng rất nhiều ở những nơi không có sự lưu luyến truyền thống và câu chấp về mặt ngôn từ “Triển lãm nghệ thuật đương đại toàn quốc”.
Tên gọi này và sự thêm ra cho nền mỹ thuật Việt Nam trong quá trình bình thường hoá trên được hiểu là những loại hình mới không có mục đích phủ định tất cả những thứ vẫn đang được gọi là mỹ thuật chính thống. Nếu không bị xuyên tạc, nó chỉ có nhu cầu đồng hành với hội hoạ, điêu khắc,… đương nhiên lúc này nhu cầu về thẩm mỹ nói chung cũng như những bộ môn gọi là nghệ thuật thị giác nói riêng được phong phú hoá một cách tối đa. Tức là, nếu trước đây, người ta có nhu cầu thưởng thức tranh, tượng,… thì giờ đây, người ta còn có cơ hội biết thêm cả intasllation (sắp đặt); performance art (trình diễn); video art;… Những hình thức đó không có gì là nghiêm trọng và khó thích nghi ở ta như một số người quan niệm. Mà rất cần những cuộc triển lãm như thế để Việt Nam có được một góc nhỏ nhìn ra thế giới, bởi đơn giản chúng đang là xu hướng hiện hành của nghệ thuật thế giới đương đại. Trong trường hợp này, cần nhấn mạnh lại một lần nữa, đây là sự chia sẻ văn hoá, bởi người ta có quyền được lựa chọn nhu cầu thẩm mỹ nhất định. Dưới tác động xã hội, chắc chắn nó tạo ra một sự cạnh tranh lành mạnh để mọi lĩnh vực nghệ thuật phát triển. Và, trên lý thuyết, các bộ môn trước đây của mỹ thuật tất nhiên phải thu hẹp “diện tích” của mình lại. Nhưng thực tế, sự thu hẹp đến đâu lại phụ thuộc vào chất lượng cũng như sự hấp dẫn hội hoạ, điêu khắc hay những lĩnh vực tạm gọi là mỹ thuật chính thống được duy trì như thế nào. Ngược lại, những hình thức mới trong nghệ thuật đương đại có nguy cơ một lần nữa trở thành “thường dân không có hộ khẩu” nếu không chứng tỏ được những giá trị đích thực mà nó đem lại cho đời sống văn hoá nghệ thuật nói chung.
Đi sâu vào hệ vấn đề có tính chất thao tác, kỹ năng, cũng như các yêu tố chuyên môn nghề nghiệp, thì thấy rằng Festival lần này có những thay đổi căn bản trong tư duy thẩm mỹ và phương thức sáng tạo nghệ thuật. Mặc dù không có ý định trình bày cũng như phân định các tác phẩm theo một quy tắc nào, nhưng cũng xin có một vài sắp xếp tương đối để tiện cho việc khảo sát các loại nghệ thuật mới (không kể các loại hình truyền thống như hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc được ban tổ chức đưa vào với mục đích dung hoà). Chúng Tôi xin tạm chia các sắp đặt ở đây làm 4 dạng.
Có thể nói ngay rằng, tên gọi của sự kiện trên không bộc lộ hết ý nghĩa đối với tính chất của nó. Vì ban tổ chức phải bảo đảm dễ chấp nhận về mặt sự kiện và hợp lý về mặt truyền thông. Tầm cỡ của nó không chỉ thuần tuý là sự kiện mỹ thuật mà còn là sự kiện văn hoá nếu chúng ta ý thức được rõ tầm ảnh hưởng. Bởi, ở đây, chúng ta đang chính thức hoá một mô hình thẩm mỹ mới chứ không đơn thuần là chấp nhận một thể loại; trường phái hay một xu hướng mỹ thuật. Do đó, nó còn một cái tên ngoài lề được người ta dùng rất nhiều ở những nơi không có sự lưu luyến truyền thống và câu chấp về mặt ngôn từ “Triển lãm nghệ thuật đương đại toàn quốc”.
Tên gọi này và sự thêm ra cho nền mỹ thuật Việt Nam trong quá trình bình thường hoá trên được hiểu là những loại hình mới không có mục đích phủ định tất cả những thứ vẫn đang được gọi là mỹ thuật chính thống. Nếu không bị xuyên tạc, nó chỉ có nhu cầu đồng hành với hội hoạ, điêu khắc,… đương nhiên lúc này nhu cầu về thẩm mỹ nói chung cũng như những bộ môn gọi là nghệ thuật thị giác nói riêng được phong phú hoá một cách tối đa. Tức là, nếu trước đây, người ta có nhu cầu thưởng thức tranh, tượng,… thì giờ đây, người ta còn có cơ hội biết thêm cả intasllation (sắp đặt); performance art (trình diễn); video art;… Những hình thức đó không có gì là nghiêm trọng và khó thích nghi ở ta như một số người quan niệm. Mà rất cần những cuộc triển lãm như thế để Việt Nam có được một góc nhỏ nhìn ra thế giới, bởi đơn giản chúng đang là xu hướng hiện hành của nghệ thuật thế giới đương đại. Trong trường hợp này, cần nhấn mạnh lại một lần nữa, đây là sự chia sẻ văn hoá, bởi người ta có quyền được lựa chọn nhu cầu thẩm mỹ nhất định. Dưới tác động xã hội, chắc chắn nó tạo ra một sự cạnh tranh lành mạnh để mọi lĩnh vực nghệ thuật phát triển. Và, trên lý thuyết, các bộ môn trước đây của mỹ thuật tất nhiên phải thu hẹp “diện tích” của mình lại. Nhưng thực tế, sự thu hẹp đến đâu lại phụ thuộc vào chất lượng cũng như sự hấp dẫn hội hoạ, điêu khắc hay những lĩnh vực tạm gọi là mỹ thuật chính thống được duy trì như thế nào. Ngược lại, những hình thức mới trong nghệ thuật đương đại có nguy cơ một lần nữa trở thành “thường dân không có hộ khẩu” nếu không chứng tỏ được những giá trị đích thực mà nó đem lại cho đời sống văn hoá nghệ thuật nói chung.
Đi sâu vào hệ vấn đề có tính chất thao tác, kỹ năng, cũng như các yêu tố chuyên môn nghề nghiệp, thì thấy rằng Festival lần này có những thay đổi căn bản trong tư duy thẩm mỹ và phương thức sáng tạo nghệ thuật. Mặc dù không có ý định trình bày cũng như phân định các tác phẩm theo một quy tắc nào, nhưng cũng xin có một vài sắp xếp tương đối để tiện cho việc khảo sát các loại nghệ thuật mới (không kể các loại hình truyền thống như hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc được ban tổ chức đưa vào với mục đích dung hoà). Chúng Tôi xin tạm chia các sắp đặt ở đây làm 4 dạng.
Dạng 1: Là những tác phẩm sắp đặt mang tính điển hình (có tiền lệ, tương đối rõ ràng, mang tính đặc trưng cho thể loại này) hoặc như một số người vẫn quen gọi là một tác phẩm sắp đặt theo phong cách “hàn lâm”, “cổ điển”. Ở dạng này, xuất phát điểm của nó phần lớn đi từ ý hướng nhất định để đòi hỏi một hình thức phù hợp. Vì nếu chỉ tạo ra một hình thức nào đó, thì đương nhiên nó trở thành một thứ “kiểu sức” khi không cần ý thức đến vấn đề ý tưởng. Vấn đề nhận thức bao giờ cũng được coi là mục đích cuối cùng. Hoặc, trong một trường hợp, người ta chủ động việc không đưa ra một nhận thức trực tiếp nào nhưng chủ động công khai việc này, chứ không dựa dẫm vào diện mạo thẩm mỹ như tác phẩm: Nhân- đồ vật của Nguyễn Thế Hùng hay Lớn hơn 20 của Nguyễn Hồng Hải,…
Dạng 2: Các tác phẩm sắp đặt có thiên hướng deco (trang trí) tức là có sự phụ thuộc khá lớn về tính dàn dựng và bài trí không gian. Dạng này, theo diễn giải của nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng là: “cấu trúc của các tác phẩm sắp đặt vẫn bị ảnh hưởng bởi lối bố cục hội hoạ, điêu khắc,…”. Tức là, phần nào đó vẫn loay hoay với việc tạo ra một không gian phải có nhóm chính nhóm phụ, có sự cân bằng thị giác và hài hoà thẩm mỹ. Dạng này xuất hiện không phải là ít trong Fesvival. Ít nhất có hơn 50% trở lên những tác phẩm ở tầng 3 nhà triển lãm tại Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội đều bị sa đà vào việc bày biện chi tiết nhằm đạt hiệu quả thẩm mỹ. Ví dụ như tác phẩm Hội tụ có sắp đặt với những chiếc nút chai của Phan Đình Phúc, tác giả vẫn phải chú trọng đến nhân vật chính trong không gian sau đó trải dài trên những tấm thảm. Về mặt thị giác mà nói thì nó có phần gây bắt mắt, nhưng xem kỹ, tác phẩm không gợi một cảm giác mạnh về xã hội tiêu thụ đang ám ảnh lên cuộc sống con người. Hay tác phẩm Những con số cũng vậy, những chiếc nón dán vé số, tưởng chừng tạo không gian, nhưng trên bình diện tác động thị giác lại yếu. Và người xem phải đặt câu hỏi tại sao nhất thiết phải đưa ra hình ảnh nón lá để liên tưởng đến thân phận người Việt Nam nghèo khổ đi bán vé số. Những tác phẩm kiểu như thế đã tạo ra một lối mòn và những quan điểm lệch lạc khi nhìn nhận về nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam. Vì nó đã hình thành nên những “motif cố hữu”, là phải bày biện, bài trí, phải treo cái này, dựng cái kia,… và cố gắng đưa cái gì đó liên quan đến truyền thống, khiến người ta phải lưu truyền một câu: “bu gà rọ lợn” nhằm ám chỉ tính truyền thống đó. Tất nhiên nếu vơ đũa cả nắm sẽ có phần oan uổng cho những nghệ sĩ thực sự có nghề.
Dạng 2: Các tác phẩm sắp đặt có thiên hướng deco (trang trí) tức là có sự phụ thuộc khá lớn về tính dàn dựng và bài trí không gian. Dạng này, theo diễn giải của nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng là: “cấu trúc của các tác phẩm sắp đặt vẫn bị ảnh hưởng bởi lối bố cục hội hoạ, điêu khắc,…”. Tức là, phần nào đó vẫn loay hoay với việc tạo ra một không gian phải có nhóm chính nhóm phụ, có sự cân bằng thị giác và hài hoà thẩm mỹ. Dạng này xuất hiện không phải là ít trong Fesvival. Ít nhất có hơn 50% trở lên những tác phẩm ở tầng 3 nhà triển lãm tại Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội đều bị sa đà vào việc bày biện chi tiết nhằm đạt hiệu quả thẩm mỹ. Ví dụ như tác phẩm Hội tụ có sắp đặt với những chiếc nút chai của Phan Đình Phúc, tác giả vẫn phải chú trọng đến nhân vật chính trong không gian sau đó trải dài trên những tấm thảm. Về mặt thị giác mà nói thì nó có phần gây bắt mắt, nhưng xem kỹ, tác phẩm không gợi một cảm giác mạnh về xã hội tiêu thụ đang ám ảnh lên cuộc sống con người. Hay tác phẩm Những con số cũng vậy, những chiếc nón dán vé số, tưởng chừng tạo không gian, nhưng trên bình diện tác động thị giác lại yếu. Và người xem phải đặt câu hỏi tại sao nhất thiết phải đưa ra hình ảnh nón lá để liên tưởng đến thân phận người Việt Nam nghèo khổ đi bán vé số. Những tác phẩm kiểu như thế đã tạo ra một lối mòn và những quan điểm lệch lạc khi nhìn nhận về nghệ thuật sắp đặt ở Việt Nam. Vì nó đã hình thành nên những “motif cố hữu”, là phải bày biện, bài trí, phải treo cái này, dựng cái kia,… và cố gắng đưa cái gì đó liên quan đến truyền thống, khiến người ta phải lưu truyền một câu: “bu gà rọ lợn” nhằm ám chỉ tính truyền thống đó. Tất nhiên nếu vơ đũa cả nắm sẽ có phần oan uổng cho những nghệ sĩ thực sự có nghề.
NGUYỄN HỒNG HẢI. Lớn hơn 20 |
Dạng 3: Tạm gọi là bán sắp đặt, tức bao gồm những tác phẩm sắp đặt có thiên hướng điêu khắc hoá, hay những tác phẩm điêu khắc có yếu tố sắp đặt. Tác phẩm của tác giả Khổng Đỗ Tuyền là một ví dụ tiêu biểu, không vượt qua giới hạn của tư duy điêu khắc, để trở thành một sắp đặt mà nó ở ranh giới giữa hai hình thức đó.
Dạng 4: Những tác phẩm có cấu trúc mang tính kết hợp (có thể bao gồm cùng lúc installation+ performance + video + …), và không thuộc vào ba loại trên. Trong một số trường hợp, thì vật chất hình thành nên tác phẩm chỉ có ý nghĩa biểu tượng, và mang tính trung gian. Những tác phẩm loại này, người ta thường khó xác định chính xác nó thuộc vào nghệ thuật khái niệm (conceptual art) hay nghệ thuật dự án (project art), hoặc cả hai. Ví dụ điển hình nhất cho phong cách này là tác phẩm Những con đường của Nguyễn Huy An. Cần nói thêm rằng, để thực hiện tác phẩm này, tác giả đã có hoạt động điền dã cả tháng trời trên hầu hết các con phố trong khu phố cổ Hà Nội. Và kết quả của nó được trưng bày chẳng đem lại một cảm nhận gì liên quan đến cái đẹp. Ngược lại, tác phẩm của Lê Trần Hậu Anh về rằm trung thu cũng được coi là loại tổng hợp, nhưng tính chất thị giác của nó lại có phần nghiêng vào dạng thứ hai.
Dạng 4: Những tác phẩm có cấu trúc mang tính kết hợp (có thể bao gồm cùng lúc installation+ performance + video + …), và không thuộc vào ba loại trên. Trong một số trường hợp, thì vật chất hình thành nên tác phẩm chỉ có ý nghĩa biểu tượng, và mang tính trung gian. Những tác phẩm loại này, người ta thường khó xác định chính xác nó thuộc vào nghệ thuật khái niệm (conceptual art) hay nghệ thuật dự án (project art), hoặc cả hai. Ví dụ điển hình nhất cho phong cách này là tác phẩm Những con đường của Nguyễn Huy An. Cần nói thêm rằng, để thực hiện tác phẩm này, tác giả đã có hoạt động điền dã cả tháng trời trên hầu hết các con phố trong khu phố cổ Hà Nội. Và kết quả của nó được trưng bày chẳng đem lại một cảm nhận gì liên quan đến cái đẹp. Ngược lại, tác phẩm của Lê Trần Hậu Anh về rằm trung thu cũng được coi là loại tổng hợp, nhưng tính chất thị giác của nó lại có phần nghiêng vào dạng thứ hai.
MAI ANH DŨNG. Những con số |
Đối với performance art tại cuộc triễn lãm này thì cả chất và lượng đều không có gì đáng nói. Như tác phẩm nói lên sự mâu thuẫn và cam chịu khi tác giả mời người xem dùng gậy đâm vào chính tác giả và đến đoạn cao trào, theo một lẽ thông thường, người ta sẽ nhận được một phản ứng nổi giận thì mọi chuyện lại buông xuôi. Tất cả nói lên ý nghĩa con người không nên sống trong thù hận, mà biến thù hận thành hoà bình. Ý tưởng của phần trình diễn có vẻ hay, nhưng về hình thức và màu hồng mà tác giả sử dụng lại không gây được cái cảm giác đủ mạnh cho ý nghĩa về sự thù hận. Một trình diễn khác về sự mù quáng của con người trước đồng đô la và quà tặng có phần nhạt nhẽo và mang tính kể lể.
Về mặt tổ chức mà nói, sự huy động một số lượng đông đảo những người tham gia là một điều đáng mừng, và nó động viên rất lớn tinh thần cho giới trẻ. Nhưng trên một mặt bằng rộng đến cả nghìn mét vuông của Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội xem ra vẫn còn quá chật cho khá nhiều ý tưởng. Nó cho thấy phần nào tính chất non nớt của các tác giả còn quá trẻ về tuổi đời và kinh nghiệm sống tham gia. Do vậy họ đã không lường trước được các vấn đề mà mình sẽ gặp phải khi đặt tác phẩm của mình vào trong không gian chứ không chỉ đơn thuần là ở trong trí tưởng tượng hoặc trên giấy. Bởi các tác phẩm nghệ thuật có tính không gian yêu cầu tác giả phải là người có đầu óc tổ chức tốt, để trên bất cứ địa hình nào, thì tác phẩm của mình đều có thể diễn đạt được ý tưởng của nó một cách hiệu quả nhất. Điều này cũng cần đến vai trò của người curator, quyết định xem các tác phẩm nào đặt cạnh nhau thì hợp lý, để trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau, chúng không bị hỏng về không gian. Đây cũng là trường hợp của tác phẩm Sự tương tác của Ngô Văn Lực và tác phẩm Mô hình bản đồ Việt Nam để ngay phía dưới. Tự nhiên tác phẩm bản đồ bị biến thành một thứ thừa chứ không phải tác phẩm, mặc dù tác giả của nó đã treo trên đó một cái nón nhằm mục đích hoạch định không gian ba chiều cho tác phẩm. Tác phẩm Cái nhà kén cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Nó choán một không gian chật ních ngay giữa phòng triển lãm, khiến người xem khó có thể cảm nhận được không gian thiên nhiên xung quanh nó. Chưa nói đến yếu tố cảm nhận văn hoá mà tác phẩm này mang lại, khiến người ta liên tưởng nhiều đến văn hoá phương Tây với những căn lều du mục.
Mặc dầu còn khá nhiều điều còn chưa ổn về chất lượng nghệ thuật và đầu óc của những người kiểm duyệt. Trên một phương diện chung Festival này thành công ngay cả khi mọi hoài nghi vẫn còn nơi số đông công chúng cũng như mọi giới, ngay trên mọi sức ép hiện có. Điều thực sự đáng mừng là, nó được diễn ra khi mọi tranh luận về thuật ngữ, khái niệm, ranh giới, phạm vi,… đều chưa ngã ngũ. Có nhiều sự đóng góp cũng như chia sẻ cho vấn đề này từ dư luận. Cũng như gần đây, nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng có hướng suy nghĩ rất cấp tiến cho những vấn đề tương tự. Đại loại, Ông cho rằng nếu chúng ta cứ loay hoay mãi với kiểu câu hỏi “những cái đó có phải là nghệ thuật không? Nên hiểu nó như thế nào?... Nếu cứ tiếp tục vấn đáp như vậy thì chẳng bao giờ hiểu được. Vấn đề là giải tán câu hỏi chứ không phải đi tìm câu trả lời…”.
Festival mỹ thuật trẻ 2007 là khởi đầu cho việc chính thức thừa nhận những môn mới như installation, performance art, video art,… của nghệ thuật đương đại? Nó đang trên con đường chính thống hoá, hay vẫn chỉ là sự uốn mình để thích nghi làm yên lòng những đòi hỏi chính đáng trong việc bình thường hoá mọi nhu cầu thẩm mỹ của thời đại hôm nay? Viễn cảnh nghệ thuật đương đại, ở đó sẽ tiếp tục có những nghệ sĩ theo đuổi con đường nghệ thuật phi lợi nhuận. Nhưng, bên cạnh đó sẽ có thêm những dự án, những cách làm khác từ việc tái lý giải nghệ thuật đương đại theo hướng có lợi nhuận. Sự nảy nở đa hướng, về đại thể nó sẽ đảm bảo cho sự phát triển phong phú. Nhưng phát triển đến đâu, phụ thuộc phần lớn vào việc chúng ta thực sự quan tâm và đầu tư cho nó như thế nào. Vì rằng, chúng ta muốn có một thứ thực sự là nghệ thuật hay nghệ thuật tương tự là tuỳ vào sự lựa chọn.
Về mặt tổ chức mà nói, sự huy động một số lượng đông đảo những người tham gia là một điều đáng mừng, và nó động viên rất lớn tinh thần cho giới trẻ. Nhưng trên một mặt bằng rộng đến cả nghìn mét vuông của Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội xem ra vẫn còn quá chật cho khá nhiều ý tưởng. Nó cho thấy phần nào tính chất non nớt của các tác giả còn quá trẻ về tuổi đời và kinh nghiệm sống tham gia. Do vậy họ đã không lường trước được các vấn đề mà mình sẽ gặp phải khi đặt tác phẩm của mình vào trong không gian chứ không chỉ đơn thuần là ở trong trí tưởng tượng hoặc trên giấy. Bởi các tác phẩm nghệ thuật có tính không gian yêu cầu tác giả phải là người có đầu óc tổ chức tốt, để trên bất cứ địa hình nào, thì tác phẩm của mình đều có thể diễn đạt được ý tưởng của nó một cách hiệu quả nhất. Điều này cũng cần đến vai trò của người curator, quyết định xem các tác phẩm nào đặt cạnh nhau thì hợp lý, để trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau, chúng không bị hỏng về không gian. Đây cũng là trường hợp của tác phẩm Sự tương tác của Ngô Văn Lực và tác phẩm Mô hình bản đồ Việt Nam để ngay phía dưới. Tự nhiên tác phẩm bản đồ bị biến thành một thứ thừa chứ không phải tác phẩm, mặc dù tác giả của nó đã treo trên đó một cái nón nhằm mục đích hoạch định không gian ba chiều cho tác phẩm. Tác phẩm Cái nhà kén cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Nó choán một không gian chật ních ngay giữa phòng triển lãm, khiến người xem khó có thể cảm nhận được không gian thiên nhiên xung quanh nó. Chưa nói đến yếu tố cảm nhận văn hoá mà tác phẩm này mang lại, khiến người ta liên tưởng nhiều đến văn hoá phương Tây với những căn lều du mục.
Mặc dầu còn khá nhiều điều còn chưa ổn về chất lượng nghệ thuật và đầu óc của những người kiểm duyệt. Trên một phương diện chung Festival này thành công ngay cả khi mọi hoài nghi vẫn còn nơi số đông công chúng cũng như mọi giới, ngay trên mọi sức ép hiện có. Điều thực sự đáng mừng là, nó được diễn ra khi mọi tranh luận về thuật ngữ, khái niệm, ranh giới, phạm vi,… đều chưa ngã ngũ. Có nhiều sự đóng góp cũng như chia sẻ cho vấn đề này từ dư luận. Cũng như gần đây, nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng có hướng suy nghĩ rất cấp tiến cho những vấn đề tương tự. Đại loại, Ông cho rằng nếu chúng ta cứ loay hoay mãi với kiểu câu hỏi “những cái đó có phải là nghệ thuật không? Nên hiểu nó như thế nào?... Nếu cứ tiếp tục vấn đáp như vậy thì chẳng bao giờ hiểu được. Vấn đề là giải tán câu hỏi chứ không phải đi tìm câu trả lời…”.
Festival mỹ thuật trẻ 2007 là khởi đầu cho việc chính thức thừa nhận những môn mới như installation, performance art, video art,… của nghệ thuật đương đại? Nó đang trên con đường chính thống hoá, hay vẫn chỉ là sự uốn mình để thích nghi làm yên lòng những đòi hỏi chính đáng trong việc bình thường hoá mọi nhu cầu thẩm mỹ của thời đại hôm nay? Viễn cảnh nghệ thuật đương đại, ở đó sẽ tiếp tục có những nghệ sĩ theo đuổi con đường nghệ thuật phi lợi nhuận. Nhưng, bên cạnh đó sẽ có thêm những dự án, những cách làm khác từ việc tái lý giải nghệ thuật đương đại theo hướng có lợi nhuận. Sự nảy nở đa hướng, về đại thể nó sẽ đảm bảo cho sự phát triển phong phú. Nhưng phát triển đến đâu, phụ thuộc phần lớn vào việc chúng ta thực sự quan tâm và đầu tư cho nó như thế nào. Vì rằng, chúng ta muốn có một thứ thực sự là nghệ thuật hay nghệ thuật tương tự là tuỳ vào sự lựa chọn.
V.Đ.T – T.T.H.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét